HÀNH KHÚC
HỌC SINH TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH
Nhạc và lời: thầy Đỗ Quang Trung ( GV Nhạc của trường)
Trường của chúng em mang tên anh hùng Trương Công Định vì chúng em hôm nay người anh hùng đã ngã xuống. Mang trong tim dòng máu kiên cường noi theo gương truyền thống anh hùng gắng học để nhớ công ơn người. Trường của chúng em mang tên anh hùng Trương Công Định vì non nước mai sau chúng em cùng chăm ngoan. Vâng lời thầy cô giáo em gắng công học tập noi theo gương người đi trước em lao động thật hăng say. Trường của chúng em Trương Công Định. Trường của chúng em Trương Công Định - trường của chúng em .
TÓM TẮT TIỂU SỬ
ANH HÙNG DÂN TỘC TRƯƠNG ĐỊNH
Trương Định (hay Trương Công Định hoặc Trương Đăng Định), sinh năm 1820 tại xã Tư Cung, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi , là con quan Trương Cầm , làm chức Hữu thủy vệ úy, Lãnh binh tỉnh Gia Định.
Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam và lấy vợ là con gái một hào phú huyện Tân Hòa ( Gò Công). Khi cha chết, Trương Định ở lại quê vợ.
Năm 1854, trương Định xuất tiền của, chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền Gia Thuận. Ông được phong chức Quản cơ đồn điền.
Tháng 12 /1859, quân pháp đánh thành Gia Định. Trương Định đưa cơ binh gia nhập đội quân của triều đình chống giặc, thường đi tiên phong lập nhiều chiến công. Một trong những chiến công nổi tiếng là phục kích giết chết tên Đại úy Barbe.
Tháng 12/1861, sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Trương Định đưa quân về đồn cũ Tân Hòa và chiêu mộ thêm quân sĩ tiếp tục đánh Pháp.Lúc này quân số của Trương Định đã có hơn 6.000 người, với sự phối hợp của nhiều lãnh tụ khởi nghĩa các vùng xung quanh.
Nghĩa quân Trương Định đã lập nhiều chiến công như trừng trị nhiều tên tay sai giặc Pháp (như bá hộ Huy ở Đông Sơn), Tiến công các đồn giặc ở Gia Thạch, Rạch Gầm và nhiều lần đánh đồn Kỳ Hòa.
Tháng 3 /1862, khi quân Pháp rút chạy khỏi Gò Công, nghĩa quân Trương Định đã tiến công tiêu diệt nhiều tên và chiếm lại Gò Công.
Ngày 05/06/1862,Triều đình ký hòa ước Nhâm Tuất , giao ba tỉnh miền Đông cho Pháp, hạ lệnh Trương Định bãi binh và đi nhận chức Lãnh binh ở An Giang. Theo yêu cầu của nhân dân và các nghĩa sĩ, Trương Định khước từ lệnh triều đình và nhân danh hiệu Bình Tây Đại Nguyên Soái do nhân dân phong , tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu chống Pháp.
Trương Định đã lãnh đạo nghĩa quân lập nhiều chiến công như tấn công đồn Rạch Tra, giết chết tên Đại úy Tu-Rút (1862), tập kích thuyền Alarme, tấn công nhiều đồn giặc và bẻ gẫy cuộc tấn công quy mô của giặc Pháp vào Gò Công, giết nhiều giặc ( 01/1863).
Sau khi rút khỏi Tân Hóa, Trương Định tiếp tục lập căn cứ ở Lý Nhơn, lãnh đạo kháng chiến. Tháng 02/1863, Pháp tấn công Lý Nhơn. Trương Định phá vòng vây trở về Gò Công lập căn cứ ở Đám Lá Tối Trời ( ven biển Gò Công).
Ngày 20/08/1864, trong cuộc chiến đấu không cân sức, Trương Định bị trọng thương. Không để rơi vào tay giặc, Trương Định đã dùng gươm tự sát để bảo toàn thanh danh khí tiết người anh hùng – khi ấy ông tròn 44 tuổi.
Hay tin ông tuẫn tiết, Vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và năm 1871 lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Ngãi).
Trương Định là hình ảnh tiêu biểu của nhân dân Gò Công, của nhân dân Nam Bộ bất khuất, kiên quyết chống Pháp xâm lược thế kỷ XIX. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và một bài văn tế điếu ông. Trong đó có bài :
Trong Nam, tên họ nổi như cồn
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn
Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ
Hơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh môn
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
Quả ấn Bình Tây đất vội chôn
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ
Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.
(Theo WIKIPEDIA – BÁCH KHOA TOÀN THƯ MỞ)